Thứ năm, Ngày 2 Tháng 5 Năm 2024

Tin chuyên ngành

Gửi Email In trang Lưu
MỘT SỐ TRAO ĐỔI NGHIỆP VỤ VỀ NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP TẠM TÍNH TIÊU CHÍ SỐ 10 - THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI/NĂM CỦA XÃ TRONG BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA TỔNG CỤC THỐNG KÊ

10/03/2021 14:59

Thực hiện Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới và Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, trên cơ sở Thông tư số 41/TT-BNNPTNT ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, ngày 07 tháng 8 năm 2014 Tổng cục Thống kê đã ban hành văn bản số 563/TCTK-XHMT về việc hướng dẫn tạm thời tính thu nhập bình quân đầu người/năm của xã - Tiêu chí số 10 trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

          Theo văn bản số 563/TCTK-XHMT ngày 07/8/2014 của Tổng cục Thống kê thì Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã được tính bằng cách chia tổng thu nhập của nhân khẩu thực tế thường trú (NKTTTT) của xã trong năm cho số NKTTTT của xã trong năm.

          Thu nhập của NKTTTT của xã là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật sau khi trừ chi phí sản xuất mà NKTTTT của xã nhận được trong 1 năm, bao gồm 4 bộ phận cấu thành, đó là:

(1) Thu nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản;

(2) Thu nhập từ sản xuất phi nông, lâm nghiệp, thuỷ sản;

(3) Thu từ tiền công, tiền lương;

(4) Thu khác được tính vào thu nhập (được cho, biếu, mừng, giúp từ người không phải là NKTTTT của xã; lãi tiết kiệm; các khoản cứu trợ, hỗ trợ mà hộ trực tiếp nhận được bằng tiền hoặc hiện vật, …).

Thu nhập của NKTTTT của xã không bao gồm các khoản thu khác không được tính vào thu nhập, như tiền rút tiết kiệm, thu nợ cho vay, bán tài sản, vay nợ, tạm ứng và các khoản chuyển nhượng vốn nhận được do liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh,…

Để xác định được thu nhập bình quân đầu người/năm của xã cần thực hiện thu thập, tính toán các chỉ tiêu:

1. Nhân khẩu thực tế thường trú của xã

NKTTTT của xã trong năm (tính đến 31/12): Là những người thực tế thường xuyên cư trú tại hộ tính đến thời điểm 31/12 đã được 6 tháng trở lên và những người mới chuyển đến ở ổn định tại hộ, không phân biệt họ đã được đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã đang ở hay chưa; cụ thể NKTTTT tại hộ bao gồm:

+ Người vẫn thường xuyên ăn ở tại hộ tính đến thời điểm 31/12 đã được 6 tháng trở lên.

+ Người mới chuyển đến ở ổn định tại hộ và những trẻ em mới sinh trước thời điểm 31/12; không phân biệt họ đã có hay không có giấy tờ pháp lý chứng nhận sự di chuyển đó.

+ Người “tạm vắng” bao gồm:

· Người đi nghỉ hè, nghỉ lễ, đi công tác, đi du lịch, dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, đi chữa bệnh, v.v…;

· Người đang bị tạm giữ;

· Người rời gia đình đi làm ăn ở nơi khác tính đến thời điểm 31/12 chưa đủ 6 tháng (nếu đủ 6 tháng trở lên thì được tính tại nơi đang ở).

2. Thu nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

Thu nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản được tính toán dựa trên:

(1) Báo cáo báo cáo thống kê của xã về trồng trọt, chăn nuôi:

- Diện tích, năng suất bình quân từng loại cây trồng hàng năm, cây trồng lâu năm cho thu hoạch trong năm để tính sản lượng thu hoạch. Sau đó nhân sản lượng thu hoạch từng loại cây trồng với đơn giá bình quân tương ứng của từng loại tại địa bàn xã để tính giá trị sản lượng thu hoạch từng loại cây trồng và tổng giá trị sản lượng thu hoạch từ trồng trọt. Trên cơ sở giá trị thu hoạch từ trồng trọt trong năm áp tỷ lệ chi phí sản xuất trồng trọt chung để trừ đi trong giá trị thu hoạch từ trồng trọt. Đồng thời, thu thập bổ sung thu từ sản phẩm phụ trồng trọt để tính thu nhập từ trồng trọt của toàn xã.

- Sản lượng thu hoạch từng loại vật nuôi, sản phẩm không qua giết mổ trong năm nhân với đơn giá bình quân tại địa bàn xã tương ứng của từng loại vật nuôi cộng với sản phẩm không qua giết mổ để tính giá trị sản lượng thu hoạch từ chăn nuôi của từng loại vật nuôi, sản phẩm không qua giết mổ cho thu hoạch và tổng giá trị thu hoạch từ chăn nuôi của xã trong năm. Trên cơ sở giá trị thu hoạch từ chăn nuôi trong năm áp tỷ lệ chi phí sản xuất chăn nuôi chung để trừ đi trong giá trị thu hoạch từ chăn nuôi. Đồng thời, thu thập bổ sung thu từ sản phẩm phụ chăn nuôi để tính thu nhập từ trồng trọt của toàn xã.

- Giá trị thu từ dịch vụ trồng trọt và chăn nuôi, sau đó áp tỷ lệ thu dịch vụ trồng trọt so với tổng thu từ trồng trọt và tỷ lệ thu dịch vụ chăn nuôi so với tổng thu từ chăn nuôi để trừ đi trong giá trị thu từ dịch vụ trồng trọt và chăn nuôi từ đó tính thu nhập từ hoạt động dịch vụ nông nghiệp.

Từ 3 nguồn trên tổng hợp chung để tính thu nhập từ hoạt động nông nghiệp của xã trong năm.

(2) Báo cáo thống kê của xã về lâm nghiệp:

- Sản lượng trồng rừng và nuôi rừng, khai thác gỗ và lâm sản nhân với đơn giá bình quân tại địa bàn xã để tính giá trị sản lượng thu hoạch lâm nghiệp đối với từng loại trồng rừng và nuôi rừng, khai thác gỗ và lâm sản. Tiếp theo, tính chi phí trồng rừng và nuôi rừng, khai thác gỗ và lâm sản bằng cách áp tỷ lệ chi phí lâm nghiệp trong tổng giá trị sản lượng thu hoạch vừa tính ở trên. Sau đó lấy tổng giá trị ản lượng thu hoạch trừ đi chi phí sẽ tính được thu nhập từ việc trồng và nuôi rừng, khai thác gỗ và lâm sản;

- Thu nhặt các sản phẩm rừng;

- Dịch vụ lâm nghiệp.

Từ 3 nguồn trên tổng hợp chung để tính thu nhập từ hoạt động lâm nghiệp của xã trong năm.

(3) Báo cáo thống kê của xã về thủy sản:

- Sản lượng nuôi trồng, đánh bắt thủy sản từng loại nhân với đơn giá bình quân tại địa bàn tương ứng từng loại để tính giá trị sản lượng thu hoạch thủy sản trong năm của từng loại;

- Giá trị sản lượng sản xuất giống thủy sản các loại trong năm của xã.

Cộng giá trị thu hoạch từ thủy sản trong năm từ hai nguồn trên sẽ tính được tổng giá trị sản lượng thủy sản của xã trong năm. Tiếp theo tính chi phí san xuất thuỷ sản bằng cách áp tỷ lệ chi phí sản xuất thủy sản trong tổng giá trị sản lượng thủy sản. Sau đó, lấy tổng giá trị thu hoạch từ thuỷ sản trừ đi chi phí tính được thu nhập từ thủy sản trong năm của xã.

Tổng hợp các nguồn thu từ trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản ở trên ta tính toán được tổng thu nhập từ nông nghiệp của xã trong năm.

3. Thu nhập từ sản xuất phi nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

Thu nhập từ sản xuất phi nông, lâm nghiệp, thủy sản của xã được xác định từ hai nguồn, gồm:

(1) Thu của doanh nghiệp, hợp tác xã do nhân khẩu thực tế thường trú của xã làm chủ hoặc tham gia làm chủ:

Trên cơ sở báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã do nhân khẩu thực tế thường trú của xã làm chủ hoặc tham gia, xã phối hợp với Chi cục Thống kê và các cơ quan chuyên môn của huyện thống nhất tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, đồng thời phỏng vấn, đánh giá tỷ lệ phần trăm lợi nhuận nhân khẩu thực tế thường trú của xã được hưởng để tính lợi nhuận nhân khẩu thực tế thường trú của xã được hưởng đối với từng ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã. Từ đó tính tổng thu nhập của doanh nghiệp, hợp tác xã do nhân khẩu thực tế thường trú của xã làm chủ hoặc tham gia làm chủ.

(2) Thu của các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể do nhân khẩu thực tế thường trú của xã làm chủ hoặc tham gia làm chủ:

Xã tổ chức khai thác, thu thập trực tiếp thông tin về doanh thu sản xuất kinh doanh của các hộ cá thể phi nông, lâm nghiệp và thủy sản do nhân khẩu thực tế thường trú của xã làm chủ hoặc tham gia theo từng ngành nghề, sau đó xã phối hợp với Chi cục Thống kê và các cơ quan chuyên môn của huyện thống nhất tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, đồng thời phỏng vấn, đánh giá tỷ lệ phần trăm lợi nhuận nhân khẩu thực tế thường trú của xã được hưởng để tính lợi nhuận nhân khẩu thực tế thường trú của xã được hưởng đối với từng ngành nghề kinh doanh của từng ngành nghề kinh doanh của hộ. Từ đó tính tính tổng thu nhập của các hộ kinh doanh phi nông, lâm nghiệp và thủy sản do nhân khẩu thực tế thường trú của xã làm chủ hoặc tham gia làm chủ.

Tổng hợp nguồn thu nhập từ doanh nghiệp, hợp tác xã, các hộ sản xuất kinh doanh phi nông, lâm nghiệp và thủy sản tính được tổng thu nhập từ hoạt động sản xuất phi nông, lâm nghiệp và thủy sản của xã trong năm.

4. Thu từ tiền công, tiền lương và thu khác được tính vào thu nhập

Xã tổ chức khai thác, thu thập trực tiếp thông tin về nhân khẩu thực tế thường trú và các khoản thu của từng hộ, từng nhân khẩu thực tế thường trú trên địa bàn xã, cụ thể:

- Thu từ tiền công, tiền lương bao gồm cả các khoản bảo hiểm xã hội trả thay lương, trợ cấp thất nghiệp, thôi việc một lần; các khoản có tính chất như tiền lương như các khoản thưởng, phụ cấp: tiền Lễ, Tết, các hình thức khen thưởng, trợ cấp ốm đau, đồng phục, ăn trưa; các loại phụ cấp dành cho công tác, làm thêm, học nghề, trách nhiệm, thâm niên, khu vực, vùng đặc biệt; trợ cấp tai nạn lao động, thai sản, …;

- Thu từ các khoản trợ cấp xã hội bao gồm trợ cấp cho gia đình chính sách, thương binh, liệt sỹ, người có công, trợ cấp thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, …;

- Thu từ cho người ngoài xã thuê tài sản, đất đai, nhà ở, …;

- Thu từ lãi đầu tư, tín dụng (lãi đầu tư, lãi tiết kiệm, cổ phần, cổ phiếu, …);

- Thu khác được tính vào thu nhập, gồm trúng xổ số, trúng thưởng, dôi dư ma chay, cưới xin, đền bù tai nạn, ốm đau từ các quỹ bảo hiểm chi trả, …

Trên cơ sở đó, tính được thu nhập từ tiền công, tiền lương và thu khác được tính vào thu nhập của các hộ trên địa bàn xã trong năm.

Việc thu thập, tính toán các nguồn thu của xã trong năm được phản ánh vào các biểu từ Biểu 1 đến Biểu 8 theo hướng dẫn của văn bản số 563/TCTK-XHMT ngày 07/8/2014 của Tổng cục Thống kê. Tổng hợp thu nhập từ các nguồn thu của xã chia cho nhân khẩu thực tế thường trú của xã trong năm theo công thức ở trên tính được thu nhập bình quân đầu người/năm của xã làm cơ sở để thẩm định, đánh giá Tiêu chí số 10 trong Bộ tiêu chí xây dựng Nông thôn mới của xã có đạt hay không đạt chuẩn.

Qua triển khai tính toán Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã đối với các xã xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Hà Giang thời gian vừa qua cho thấy một số bất cập, cụ thể:

Thứ nhất, về nguồn số liệu báo cáo của xã đối với lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Các xã không có đầy đủ số liệu về diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng; diện tích, sản lượng thu hoạch từ nuôi và trồng đánh bắt các loại thủy, hải sản; diện tích, sản lượng lâm sản thu hoạch; … trong năm do không tổ chức điều tra và không có nhân lực, vật lực để thực hiện điều tra trên địa bàn toàn xã. Để tính toán được thu nhập từ lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của xã, ngoài việc thu thập thông tin các biểu của xã, Chi cục Thống kê và các phòng, ban cấp huyện phải hỗ trợ tính toán các số liệu. Tuy nhiên, từ khi Tổng cục Thống kê triển khai thực hiện các phương án điều tra mới trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đến nay thì mẫu chỉ đại diện cho cấp tỉnh, số liệu của cấp huyện và cấp xã về lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chủ yếu được tổng hợp, suy rộng và phân bổ theo phương pháp chuyên gia nên mức độ chính xác không cao. Mặt khác, thời điểm tính toán thu nhập từ lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của xã thường thực hiện vào tháng 10 để kịp hoàn thiện hồ sơ thẩm định đạt chuẩn nông thôn mới gửi cấp huyện và cấp tỉnh thẩm định vào tháng 11 hoặc tháng 12 hàng năm nên đối với một số sản phẩm thu hoạch từ nông, lâm nghiệp và thủy sản phải ước tính hoặc sử dụng kết quả tính toán của vụ trong năm trước để tính toán.  Vì vậy, nguồn số liệu về kết quả hoạt động sản xuất đối với lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của cấp xã rất hạn chế, không đầy đủ và đảm bảo độ chính xác để tính toán thu nhập của xã từ lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Thứ hai, về xác định giá bình quân các mặt hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản tại địa bàn xã.

Theo hướng dẫn tạm tính thu nhập bình quân đầu người/năm của xã thì xã tự xác định đơn giá bình quân thực tế năm tại địa phương đối với các sản phẩm thu hoạch từ lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản để nhân với sản lượng thu hoạch và tính thu nhập. Thực tế triển khai cho thấy việc xác định đơn giá bình quân thực tế năm của xã là thiếu căn cứ do không có tổ chức điều tra để tính toán, xác định đơn giá bình quân của người sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn xã. Dẫn đến đơn giá bình quân thực tế năm tại địa bàn xã có thể thay đổi cao hay thấp tùy thuộc vào thời điểm xác định và phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của người được giao nhiệm vụ tính toán. Mặt khác, cuộc điều tra giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của ngành Thống kê triển khai thực hiện thì mẫu chỉ đại diện cho cấp tỉnh nên việc sử dụng kết quả suy rộng để làm căn cứ thẩm định đối với đơn giá bình quân thực tế các mặt hàng thu từ nông, lâm nghiệp và thủy sản của người sản xuất đối với từng xã cụ thể rất khó khăn. Từ đó, dẫn đến kết quả tính toán thu nhập từ lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của xã chưa đảm bảo độ chính xác và phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của việc xác định đơn giá bình quân thực tế các mặt hàng thu từ nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Thứ ba, về xác định doanh thu; tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh phi nông, lâm nghiệp và thủy sản; tỷ lệ phần trăm lợi nhuận nhân khẩu thực tế thường trú của xã được hưởng.

Do thời điểm tính toán, xác định doanh thu của các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh phi nông, lâm nghiệp và thủy sản của xã thường thực hiện vào tháng 10 để kịp hoàn thiện hồ sơ thẩm định đạt chuẩn nông thôn mới gửi cấp huyện và cấp tỉnh thẩm định vào tháng 11 hoặc tháng 12 hàng năm nên các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể chưa có kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo quyết toán tài chính của cả năm. Việc tính toán, xác định được doanh thu của doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh phải dựa trên kết quả hoạt động của năm trước để ước tính nên phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chủ quan của chủ doanh nghiệp, chủ hộ sản xuất kinh doanh cá thể và của người được giao nhiệm vụ tính toán. Đồng thời với việc phải ước tính doanh thu thì việc xác định tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận nhân khẩu thực tế thường trú của xã được hưởng cũng phải thực hiện ước tính dựa trên dự kiến của các chủ doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh và người được giao nhiệm vụ tính toán. Những điều này dẫn đến việc tính toán thu nhập từ các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể của xã có độ chính xác chưa cao và phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan trong việc xác định doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận nhân khẩu thực tế thường trú được hưởng của chủ doanh nghiệp, chủ hộ sản xuất kinh doanh và người được giao nhiệm vụ tính toán.

Thứ tư, về xác định thu nhập từ tiền công, tiền lương, thu khác được tính vào thu nhập của hộ dân cư trên địa bàn xã.

Việc xác định thu nhập từ tiền công, tiền lương, các khoản thu khác của hộ thường được xã tổ chức cho các hộ tự kê khai và giao cho trưởng thôn thực hiện tổng hợp vào biểu của từng thôn. Thực tế, do thời gian tổ chức thu thập thông tin ngắn, hộ không được hướng dẫn, giải thích về nội dung các chỉ tiêu nên việc thực hiện kê khai của các hộ rất nhanh dẫn đến kê khai chưa chính xác các khoản thu nhập từ tiền công, tiền lương, các khoản thu nhập khác của hộ. Chẳng hạn như thu nhập từ tiền công, tiền lương hộ không chỉ kê khai tiền công, tiền lương của những thành viên là nhân khẩu thực tế thường trú của hộ mà còn kê khai toàn bộ tiền công, tiền lương của những người đã từng là nhân khẩu của hộ hiện đang đi làm nhận tiền công, tiền lương ở nơi khác; hoặc như khoản thu khác được tính vào thu nhập như dôi dư từ tổ chức đám cưới, đám ma thì thường hộ không trừ đi các chi phí tổ chức mà tính ngay tổng thu được từ các khoản mừng, viếng vào thu nhập khác của hộ; hoặc những khoản thu từ tiền lãi tiết kiệm, cổ phần, cổ phiếu, … thường hộ không kê khai vào thu nhập của hộ; …

Thứ năm, về việc áp dụng phương pháp tính toán Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã và sử dụng kết quả tính toán.

Quá trình xây dựng nông thôn mới là quá trình thực hiện kéo dài nhiều năm với 19 tiêu chí về các lĩnh vực như: giao thông, xây dựng, văn hoá, xoá đói giàm nghèo, thu nhập, an ninh trật tự, xã hội, …. Trong quá trình đó, Ban chỉ đạo nông thôn mới của huyện phải hướng dẫn Ban chỉ đạo của các xã căn cứ các tiêu chí để đánh giá xem đã đạt những tiêu chí nào, những tiêu chí nào chưa đạt và từ đó đăng kí xây dựng nâng tiêu chí và đăng kí về đích đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới. Do đó, không chỉ các xã đăng kí về đích đạt chuẩn nông thôn mới trong năm tổ chức tính toán tiêu chí Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã mà tất cả các xã đều phải tính toán chỉ tiêu này. Trên cơ sở tính toán Thu nhập bình quân đầu người/năm của các xã, huyện cũng tổng hợp và tính toán thu nhập bình quân đầu người/năm của huyện để phục vụ công tác lãnh chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Từ những bất cập đã chỉ ra ở trên thì kết quả tính toán chỉ tiêu Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã chưa đảm bảo độ tin cậy, chính xác và phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan nên việc dựa trên kết của tính toán của các xã để tổng hợp, tính toán chỉ tiêu này của cấp huyện phục vụ công tác lãnh chỉ đạo, xây dựng mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sẽ không đảm bảo độ chính xác, có thể xảy ra xung đột, mâu thuẫn với số liệu thu nhập bình quân đầu người của toàn tỉnh được tính toán suy rộng từ kết quả khảo sát mức sống hai năm tổ chức một lần do Tổng cục Thống kê công bố.

Nhìn chung, trong giai đoạn 2016 - 2020, dựa trên hướng dẫn tạm tính chỉ tiêu Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã đã giúp cho Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới các cấp có cơ sở thẩm định, đánh giá, công nhận các xã đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới đối với Tiêu chí số 10 - Thu nhập bình quân đầu người trong Bộ tiêu chí xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, do nguồn số liệu của cấp xã để phục vụ tính toán thiếu, không đảm bảo độ chính xác nên thực tế đã phát sinh những bất cập như đã chỉ ra ở phần trên dẫn đến kết quả tính toán chỉ tiêu Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã trong Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới có độ chính xác và độ tin cậy chưa cao, và đặc biệt việc tính toán phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chủ quan của người được giao tổng hợp, tính toán và chủ quan của người thẩm định, chưa đảm bảo khách quan.

Vì vậy, trong giai đoạn 2021 - 2025 và những năm tiếp theo, để kết quả tính toán Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã - Tiêu chí số 10 trong Bộ tiêu chí xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới đảm bảo chính xác, khách quan, phản ánh sát thực tế thu nhập của người dân, hạn chế tối đa kết quả tính toán phụ thuộc và yếu tố chủ quan, Tổng cục Thống kê cần sớm nghiên cứu cập nhật bổ sung để hoàn thiện phướng pháp tạm tính vừa qua đã triển khai hoặc ban hành, hướng dẫn phương pháp mới để tính toán chỉ tiêu này. Do những hạn chế, bất cấp của phương pháp tạm tính trên, đề xuất Tổng cục Thống kê có thể tham mưu cho Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới Trung ương áp dụng điều tra mẫu bằng phương pháp CAPI để suy rộng, tính toán Thu nhập bình quân đầu người/năm của xã - Tiêu chí số 10 trong Bộ tiêu chí xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới./.

Tăng Bá Tuyên

Tin khác

TÌNH HÌNH BIẾT ĐỌC, BIẾT VIẾT CHỮ PHỔ THÔNG VÀ BIẾT ĐỌC, BIẾT VIẾT CHỮ DÂN TỘC MÌNH CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG QUA KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ 2019 (19/02/2021 10:56)

TỐC ĐỘ TĂNG VÀ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NGUỒN THU VÀO TỐC ĐỘ TĂNG THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI (1 THÁNG) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2004 - 2018 QUA KẾT QUẢ KHẢO SÁT MỨC SỐNG HỘ GIA ĐÌNH (22/01/2021 09:51)

Tin giá và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm 2020 (19/01/2021 08:59)

Tin giá và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2020 (14/12/2020 08:41)

Công tác thành lập Ban chỉ đạo, Tổ thường trực giúp việc chuẩn bị cho Tổng điều tra kinh tế năm 2021 trên địa bàn tỉnh Hà Giang (02/12/2020 07:53)

THỰC TRẠNG TẢO HÔN VÀ HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG QUA KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 (26/11/2020 14:02)

Tin giá và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 năm 2020 (01/11/2020 10:14)

PHÂN TÍCH SỰ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC KHU VỰC KINH TẾ, THUẾ SẢN PHẨM VÀ TRỢ CẤP VÀO TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG TỔNG SẢN PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG (GRDP) GIAI ĐOẠN 2011 - 2019 (12/10/2020 15:51)

ĐIỀU KIỆN Ở VÀ SINH HOẠT CỦA CÁC HỘ DÂN CƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG QUA KẾT QUẢ TỔNG ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ NHÀ Ở NĂM 2019 (08/10/2020 11:01)

Tin giá và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 năm 2020 (29/09/2020 15:25)