Chủ nhật, Ngày 5 Tháng 5 Năm 2024

Tin chuyên ngành

Gửi Email In trang Lưu
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường khu vực nông thôn tỉnh Hà Giang qua kết quả điều tra nông thôn nông nghiệp giữa kỳ 2020

20/09/2021 15:30

Cuộc điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 tiến hành vào thời điểm 01/7/2020 theo Quyết định số 1695/QĐ-TCTK ngày 31/12/2019 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê. Đây là cuộc điều tra chọn mẫu quy mô lớn trên phạm vi cả nước. Qua kết quả điều tra, cho thấy kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường khu vực nông thôn tỉnh Hà Giang có nhiều chuyển biến tích cực sau 5 năm (từ năm 2016 đến năm 2020).

1. Mạng lưới điện nông thôn

Thực hiện chủ trương của Chính phủ về phát triển mạng lưới điện ở vùng nông thôn, những năm gần đây, Hà Giang không ngừng đầu tư mở rộng, cải tạo, nâng cấp lưới điện nông thôn nhằm đảm bảo an toàn, cung cấp lượng điện trong sinh hoạt và sản xuất cho bà conTheo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020, tại thời điểm 01/7/2020 tỷ lệ xã có điện lưới quốc gia đạt 100%. Tỷ lệ thôn có điện năm 2016 đạt 88,99%, đến năm 2020 đạt 95,19% trong đó: Số thôn có điện lưới quốc gia đạt 88,45%, tăng 5,12% so với năm 2016 (năm 2016: 83,33%).

Do khó khăn về địa hình, dân cư sống rải rác, các khu trung tâm thôn, cụm dân cách xa nhau dẫn đến việc đưa lưới điện đến với các hộ dân cư còn rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ số thôn, số hộ sử dụng điện lưới quốc gia của Hà Giang so với tỷ lệ chung của vùng và của cả nước còn đạt ở mức thấp.Tỷ lệ số thôn có điện lưới quốc gia đạt 88,45%, thấp hơn so với các tỉnh trong vùng 6,76% (vùng Trung du và miền núi phía Bắc: 95,21%) và thấp hơn so với cả nước 9,59% (cả nước 98,04%).

2. Giao thông nông thôn

Tại thời điểm 01/7/2020, tỷ lệ xã có đường ô tô từ trụ sở UBND xã đến trụ sở UBND huyện đạt 100%. Tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trụ sở UBND xã trên địa bàn nông thôn toàn tỉnh so với tổng số thôn tăng từ 84,18% năm 2016 lên 88,23% năm 2020. Tỷ lệ xã có đường trục xã, liên xã được nhựa/bê tông hóa đạt 100% (Năm 2016: 96,05%). Hệ thống đường đi các thôn cũng được chú trọng phát triển, nhiều con đường liên xã, liên thôn được xây dựng mới và nâng cấp bằng bê tông hoá đã được khai thác và sử dụng rất hiệu quả, tỷ lệ thôn có đường ô tô đi đến được đạt 86,86% tăng 5,17%, so với năm 2016.

Kết quả trên cho thấy giao thông nông thôn của tỉnh đã phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng, góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo…

3. Hệ thống thủy nông

Tại thời điểm 01/7/2020, hệ thống kênh mương thủy nông trên địa bàn nông thôn do xã và hợp tác xã quản lý có tổng chiều dài 3.581 km; bình quân mỗi xã 20,58 km. Chiều dài kênh mương kiên cố hóa đạt trên 2.600 km, chiếm 72,61%, tăng 10,24 điểm phần trăm so với 01/7/2016. Để nâng cao năng lực tưới tiêu, ngoài việc đẩy mạnh đầu tư kiên cố hóa, hệ thống thủy nông còn được xây dựng thêm số trạm bơm. Tại thời điểm 01/7/2020, trên địa bàn nông thôn toàn tỉnh có gần 1.590 trạm bơm tưới tiêu, phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp, và thủy sản; bình quân mỗi xã có 2,15 trạm bơm.

Nhờ đẩy mạnh đầu tư bổ sung, nâng cấp nên năng lực của hệ thống thủy nông tăng đáng kể. Diện tích gieo trồng lúa vụ Đông xuân 2020 được tưới và cấp nước chủ động chiếm 80,75% tổng diện tích gieo trồng; diện tích tiêu nước chủ động chiếm 73,38%. Diện tích gieo trồng các loại cây hằng năm khác trong 12 tháng trước thời điểm điều tra 01/7/2020 được tưới và cấp nước chủ động chiếm 39,68%; diện tích tiêu nước chủ động chiếm 36,69%. Diện tích cây lâu năm được tưới và cấp nước chủ động trong 12 tháng trước thời điểm 01/7/2020 đạt 49,86% tổng diện tích gieo trồng; diện tích tiêu nước chủ động chiếm 42,98%.

4. Hệ thống trường học

Hà Giang tỉnh nghèo, còn nhiều khó khăn nên nhận thức về vấn đề học hành và công tác xã hội hoá giáo dục chưa được mạnh mẽ. Cơ sở hạ tầng hệ thống trường học còn thiếu và yếu. Đó là những khó khăn mà ngành GD- ĐT Hà Giang đang phải đối mặt và từng bước đã, đang có những tháo gỡ trong thời gian qua và trong thời gian tới. Trên thực tế, ngành GD-ĐT tỉnh Hà Giang luôn được sự quan tâm và đầu tư trực tiếp rất lớn của Bộ GD&ĐT qua các chương trình mục tiêu, các dự án đã tạo đà phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục nhất là cơ sở hạ tầng, hệ thống trường học mầm non, tiểu học.

Hệ thống trường học, giáo dục mầm non ở nông thôn tiếp tục mở rộng và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi thu hút trẻ em trong độ tuổi đến trường. Theo kết quả điều tra 100% số xã trên địa bàn tỉnh có trường mầm non và tiểu học; có 171 xã có trường trung học cơ sở, chiếm 97,71% tổng số xã. Bên cạnh việc rà soát, xây dựng bổ sung hệ thống trường lớp phù hợp với nhu cầu thực tế, các cơ sở giáo dục khu vực nông thôn còn được đầu tư kiên cố hóa. Tỷ lệ kiên cố hóa năm 2020 của trường mầm non đạt 89,09%, tăng 16,79 % so với năm 2016; trường tiểu học đạt 92,86%, tăng 11,52 %; trường trung học cơ sở đạt 95,93%, tăng 5,78 %.

Khó khăn đối với giáo dục Hà Giang không thể khắc phục một sớm một chiều mà phải có thời gian, từng bước đi thích hợp, điều kiện đầu tiên là cần có sự đầu tư hơn nữa về cơ sở hạ tầng để đảm bảo đời sống ổn định lâu dài cho giáo viên. Với Hà Giang, điều quan trọng là phải tập trung phát triển mạng lưới giáo dục- nhất là bậc học Mầm non, quan tâm chỉ đạo chuyên môn ở các điểm trường, đề cao trách nhiệm của hiệu trưởng và CBQL nhà trường; tăng cường kiểm tra tận cơ sở kịp thời giúp đỡ, tháo gỡ khó khăn để đảm bảo dạy và học ổn định. Hà Giang cần đầu tư hơn nữa việc phát triển giáo dục dân tộc: Mở các trường nội trú PTCS cụm xã biên giới, phát triển và hỗ trợ chế độ cho các lớp nội trú dân nuôi, duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng dạy và học. Quy hoạch mạng lưới hệ thống giáo dục các cấp học, ngành học, phát huy kết quả đầu tư tạo ra thế ổn định cho sự phát triển giáo dục, tăng cường đầu tư trường chuẩn Quốc gia các cấp học.

5. Hệ thống thiết chế văn hóa, thông tin, thể thao

Mạng lưới thiết chế văn hóa, thông tin, thể thao trên địa bàn tỉnh được duy trì và phát triển rộng khắp, tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ, triển khai các dịch vụ mới tiện ích phục vụ đến các xã vùng sâu, vùng xa của tỉnh, phục vụ tốt nhu cầu của người dân Việc phát triển mạng lưới bưu chính, viễn thông cũng giúp cho người dân ở khu vực nông thôn tiếp cận được những công nghệ mới để áp dụng, ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Tại thời điểm 01/7/2020, toàn tỉnh có 81 xã có nhà văn hóa xã, chiếm 46,29% tổng số xã trên địa bàn nông thôn, tăng 1,66% điểm phần trăm so với năm 2016; 28 xã có thư viện xã, chiếm 16%. Ngoài ra còn có 57 xã có sân thể thao, chiếm 32,57% tổng số xã.

Năm 2020, cả tỉnh có 143 xã lắp đặt hệ thống loa truyền thanh xã, chiếm 81,71% tổng số xã khu vực nông thôn, tăng 4,25 điểm phần trăm so với năm 2016. Có 873 thôn có có hệ thống loa truyền thanh kết nối với hệ thống loa truyền thanh xã, chiếm 48,23 tổng số thôn khu vực nông thôn, tăng 7,42 điểm phần trăm so với năm 2016.

6. Hệ thống y tế được tăng cường cả về cơ sở vật chất và nhân lực

Những năm gần đây, Hà Giang đã tranh thủ các nguồn lực đầu tư (trung ương, dự án) để tập trung cho hệ thống cơ sở y tế. Giai đoạn vừa qua, y tế Hà Giang được thụ hưởng hoặc cùng các ngành tham gia thực hiện các đề án, dự án quan trọng như: Dự án Đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ y tế cơ sở tỉnh Hà Giang, Dự án Chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nâng cao thể trạng tầm vóc người DTTS, Chương trình hỗ trợ ngành y tế của Liên minh Châu Âu, Dự án nâng cao năng lực phòng chống HIV/AIDS khu vực tiểu vùng sông Mê kông mở rộng… Cùng với sự hỗ trợ của các tập đoàn, doanh nghiệp, Hà Giang tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các bệnh viện, trung tâm y tế, trạm y tế theo hướng “xanh - sạch - đẹp”; bổ sung trang thiết hiện đại, tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị.

Năm 2020, 100% số xã có trạm y tế hoặc phòng khám đa khoa khu vực, 156 Xã đạt Tiêu chí quốc gia về y tế xã, chiếm 89,14% tổng số xã ở khu vực nông thôn. Bên cạnh trạm y tế xã, năm 2020, trên địa bàn nông thôn còn có 16 xã có cơ sở khám chữa bệnh là bệnh viện, trung tâm y tế khu vực, phòng khám đa khoa và chuyên khoa, phòng khám chữa bệnh đông y, chiếm 9,14% tổng số xã; có 73 xã, chiếm 41,71% tổng số xã có cơ sở kinh doanh thuốc tân dược. Cùng với đầu tư cơ sở vật chất, các tuyến y tế xã, thôn còn được tăng cường về nhân lực. Năm 2020, toàn tỉnh có 1.735 thôn có nhân viên y tế/cô đỡ thôn bản, chiếm 95,86%.

7. Hạ tầng vệ sinh môi trường nông thôn

Môi trường sống trong nông thôn được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ sức khỏe nhân dân, tuy kết quả đạt thấp nhưng là tiến bộ bước đầu trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và các hộ gia đình. Năm 2020, toàn tỉnh có 137 xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung trên địa bàn xã, chiếm 78,29% tổng số xã, tăng 4,29 % so với năm 2016; Có 26 xã và 83 thôn xây dựng hệ thống thoát nước thải sinh hoạt chung, chiếm 14,86% tổng số xã và 4,59% tổng số thôn. Tỷ lệ xã thu gom rác thải sinh hoạt tăng từ 37,29% năm 2016 lên 41,14% năm 2020; tỷ lệ thôn thu gom rác thải sinh hoạt tăng từ 14,22% lên 15,66%. Tại thời điểm 01/7/2020, cả tỉnh có 6 xã có có điểm thu gom chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật, chiếm 3,43% tổng số xã trên địa bàn nông thôn.

Thực tế cho thấy, chức năng quản lý nhà nước về môi trường khu vực nông thôn giữa các ngành chưa có sự phân công rõ ràng dẫn đến hoạt động chồng chéo và bỏ ngỏ; chưa có chính sách hỗ trợ cho các hoạt động thu gom, quản lý chất thải rắn, chất thải sinh hoạt ở nông thôn.

Hiện nay, hầu hết các tổ chức xã hội ở nông thôn mới thực hiện được các nội dung về truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về những nguy hại của rác thải sinh hoạt, chưa có các biện pháp xử lý, dẫn đến tình trạng ứ đọng, ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt ở nông thôn ngày càng gia tăng. Việc thu gom rác thải tại nông thôn chưa được coi trọng. Nhiều thôn, xã, chưa có các đơn vị chuyên trách trong việc thu gom rác thải. Một số địa phương đã áp dụng các biện pháp thu gom rác thải sinh hoạt nhưng với quy mô nhỏ, phần lớn do các tổ thiện nguyện tổ chức thu gom, phương tiện thu gom còn rất thô sơ với các xe cải tiến chuyên chở về nơi tập trung rác. Mặt khác, hoạt động thu gom này không được diễn ra thường xuyên mà kết hợp với các đợt nạo vét kênh mương do xã phát động.

8. Hệ thống tín dụng, ngân hàng đóng vai trò tích cực trong cung ứng vốn

Những năm gần đầy, hệ thống tín dụng, ngân hàng trên địa bàn tỉnh tiếp tục đẩy mạnh triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đến người dân được nhanh chóng và thuận lợi, hệ thống tín dụng, ngân hàng đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm cải tiến, tháo gỡ về thủ tục cho vay, đơn giản hóa thủ tục hồ sơ vay vốn, niêm yết công khai minh bạch chính sách tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn vay; chủ động tiếp cận khách hàng, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…) để tuyên truyền, phổ biến chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn đến các khách hàng trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Tại thời điểm 01/7/2020, cả tỉnh có 08 xã có ngân hàng, chi nhánh ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân hoạt động, chiếm 4,57% tổng số xã trên địa bàn nông thôn, tăng 2,32 điểm phần trăm so với 01/7/2016. Hệ thống tín dụng, ngân hàng nông thôn thực sự là nguồn cung ứng vốn quan trọng hỗ trợ kinh tế - xã hội nông thôn phát triển. Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ hộ được vay vốn cho hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm trong tổng số hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản ở khu vực nông thôn có nhu cầu vay vốn của hệ thống tín dụng, ngân hàng đã tăng từ 48,95% năm 2016 lên 69,54% năm 2020.

9. Mạng lưới khuyến nông được duy trì, đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật tuyển chọn và chăm sóc cây trồng, vật nuôi

Mạng lưới khuyến nông tiếp tục duy trì hoạt động tại các xã, thôn. Năm 2020, toàn tỉnh có 175 xã có cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đạt 100% tổng số xã khu vực nông thôn; 174 xã có cán bộ thú y, chiếm 99,43%. Tổng số cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, và cán bộ thú y năm 2020 của các xã là 412 người. Lực lượng cộng tác viên khuyến nông, khuyến lâm và thú y của các thôn cũng khá đông đảo. Tại thời điểm 01/7/2020 có 1.675 thôn có cộng tác viên khuyến nông, khuyến lâm, chiếm 92,54% tổng số thôn và 1.592 thôn có cộng tác viên thú y, chiếm 87,96% tổng số thôn. Trên địa bàn nông thôn còn có 31 xã có người hành nghề thú y tư nhân, chiếm 17,71% tổng số xã với 60 người hành nghề.

10. Hoạt động thương mại, dịch vụ hỗ trợ sản xuất và phục vụ dân sinh phát triển đa dạng

Trong những năm qua hoạt động thương mại, dịch vụ của tỉnh phát triển nhanh, liên tục tăng dần qua các năm. Tuy nhiên trong năm 2020, tình hình dịch Covid-19 bùng phát mạnh và diễn biến khó lường cùng với mưa, lũ làm ảnh hưởng đến hoạt động thương mại, dịch vụ đặc biệt tại các vùng nông thôn. Tỉnh đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo điều hành nhằm bảo đảm đủ nguồn cung hàng hóa thiết yếu, đáp ứng nhu cầu san xuất và phục vụ tiêu dùng của người dân, kích cầu tiêu dùng, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội.

Phát triển thị trường trong tỉnh được đẩy mạnh về khu vực nông thôn, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, tập trung chủ yếu ở các mặt hàng vật tư phục vụ sản xuất và các mặt hàng nhu yếu phẩm, thương mại nội tỉnh ngày càng được cải thiện, nhất là hệ thống bán buôn, bán lẻ… Tại thời điểm 01/7/2020, cả tỉnh có 42 xã có điểm/cửa hàng cung cấp giống cây trồng, chiếm 24% tổng số xã trên địa bàn nông thôn, tăng 2,78 điểm phần trăm so với thời điểm 01/7/2016; 15 xã có điểm/cửa hàng cung cấp giống vật nuôi, chiếm 8.75% tổng số xã, tăng 0,67 điểm phần trăm; 8 xã có điểm/cửa hàng cung cấp giống thủy sản, chiếm 4,57%; có 66 xã có điểm/cửa hàng cung cấp vật tư, nguyên liệu cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 37,71%; 42 xã có điểm/cửa hàng thu mua sản phẩm nông, lâm, thủy sản, chiếm 24%, tăng 0,31 điểm phần trăm. Trên địa bàn nông thôn còn có 135 xã có chợ, chiếm 77,14% tổng số xã, tăng 26,86 điểm phần trăm so với thời điểm 01/7/2016.

11. Cơ sở sản xuất công nghiệp hình thành và phát triển

Phát triển công nghiệp, chế biến nông lâm sản là hướng đi bền vững đưa Hà Giang sớm thoát khỏi tỉnh đói nghèo và lạc hậu. Xác định được điều đó, trong những năm qua, tỉnh ta có sự quan tâm đúng mức để phát triển công nghiệp, thương mại và chế biến nông lâm sản thông qua nhiều chương trình, hành động được triển khai nhằm thu hút sự quan tâm đầu tư và phát triển cho các tổ chức, cá nhân như: Thực hiện công tác quảng bá tiềm năng, lợi thế để thu hút đầu tư từ các tổ chức, doanh nghiệp; dần hoàn thiện quy hoạch tổng thể về công nghiệp chế biến, thương mại; triển khai các chính sách thu hút đầu tư; thực hiện cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ ở các cấp, các ngành…

Trên địa bàn nông thôn toàn tỉnh hiện có 86 xã có hộ/cơ sở chuyên chế biến nông, lâm, thủy sản, chiếm 49,14% tổng số xã với 1.225 hộ/cơ sở hoạt động, bình quân có 14,24 hộ/cơ sở thuộc xã có hộ/cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản. Bên cạnh hộ/cơ sở sản xuất công nghiệp nói chung và chế biến nông, lâm, thủy sản nói riêng, năm 2020 còn có 14 xã có doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo, chiếm 8% tổng số xã khu vực nông thôn.

12. Làng nghề được rà soát, quy hoạch lại, sản phẩm hàng hóa ngày càng phù hợp với nhu cầu thị trường

Làng nghề là loại hình kinh tế phi nông, lâm nghiệp và thủy sản quan trọng trên địa bàn nông thôn. Sự phát triển của làng nghề đem lại lợi ích lớn cả về kinh tế và xã hội. Làng nghề sản xuất ra những sản phẩm độc đáo, có giá trị văn hóa cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng muôn vẻ của đời sống xã hội và xuất khẩu; đồng thời tạo việc làm, thu nhập và sinh kế bền vững cho người dân. Chính vì vậy, làng nghề đang được rà soát và tổ chức lại sản xuất. Theo kết quả điều tra 01/7/2020, cả tỉnh có 16 xã và 17 thôn có làng nghề, chiếm 9,14% tổng số xã và 0,94% tổng số thôn khu vực nông thôn.

Nguyễn Dương Hoàng

Tin khác

DÂN SỐ CAO TUỔI VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN SỐ CAO TUỔI Ở HÀ GIANG QUA KẾT QUẢ TỔNG ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ NHÀ Ở 2019 (15/09/2021 15:15)

Tin giá và chỉ số giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng 8 năm 2021 (14/09/2021 15:38)

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CƠ BẢN CỦA VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ QUA KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG (05/07/2021 16:00)

KẾT QUẢ CHỦ YẾU ĐIỀU TRA LAO ĐỘNG VIỆC LÀM NĂM 2020 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG (07/06/2021 14:59)

HÀ GIANG 30 NĂM TÁI LẬP TỈNH (1991 – 2021) QUA NHỮNG CON SỐ THỐNG KÊ (11/05/2021 15:43)

NHỮNG KẾT QUẢ CHỦ YẾU CỦA CUỘC ĐIỀU TRA BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ VÀ KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH THỜI ĐIỂM 1/4/2020 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG (04/05/2021 15:12)

Thanh tra điều tra chăn nuôi thời điểm 1/4/2021tại huyện Đồng Văn (29/04/2021 14:23)

Tác động của dịch tả lợn Châu Phi đến sự phát triển chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh Hà Giang (29/04/2021 10:17)

GIÁM SÁT ĐIỀU TRA BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ VÀ KHHGĐ THỜI ĐIỂM 1/4/2021 TẠI HÀ GIANG (14/04/2021 16:06)

LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG QUA KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 (07/04/2021 11:12)